Giáo dục nghề nghiệp đang đứng trước “thời điểm vàng” để bứt phá

GDVN -Đại diện các cơ sở GDNN đã chia sẻ sự tác động của NQ 71 đối với hệ thống giáo dục nghề nghiệp, đề xuất hướng đi mới nhằm phát triển nguồn nhân lực.

Ngày 23/10/2025, tại Trường Cao đẳng Quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh, Câu lạc bộ Khối trường cao đẳng Công nghệ và Kinh doanh thuộc Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam đã tổ chức Hội thảo “Tác động của Nghị quyết 71-NQ/TW đối với giáo dục nghề nghiệp”.

Hội thảo có sự tham dự của ông Lê Huy Nam – Vụ trưởng Vụ Giáo dục, Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương; Thạc sĩ Phạm Ngọc Lan – Trưởng Ban Công tác hội viên, Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam; cùng lãnh đạo, đại diện các trường cao đẳng thuộc Câu lạc bộ Khối trường cao đẳng Công nghệ và Kinh doanh, trường cao đẳng đào tạo khối lĩnh vực Công nghệ và Kinh doanh trên cả nước.

Tại sự kiện, Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam đã trao Quyết định Hội viên cho Trường Cao đẳng Lý Tự Trọng Thành phố Hồ Chí Minh. Đây được xem là hoạt động thể hiện tinh thần đoàn kết, kết nối và đồng hành phát triển giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên phạm vi cả nước.

Trong khuôn khổ hội thảo, đại diện một số cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã trình bày các tham luận, chia sẻ nhằm nêu bật những góc nhìn đa chiều, mô hình đào tạo phù hợp thực tiễn và giải pháp đào tạo gắn với yêu cầu đổi mới. Các tham luận, chia sẻ đã tập trung phân tích vào tác động của Nghị quyết số 71-NQ/TW (Nghị quyết 71) của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo đối với hệ thống giáo dục nghề nghiệp, đồng thời đề xuất hướng đi mới trong quản trị, liên kết hợp tác và phát triển nguồn nhân lực.

Cần sớm có hệ thống công nghệ thông tin quản lý chung các cơ sở giáo dục nghề nghiệp ở mọi khâu

Trình bày tham luận “Đổi mới giáo dục nghề nghiệp theo tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW tại Trường Cao đẳng Công nghệ cao Hà Nội”, Tiến sĩ Khổng Hữu Lực – Trưởng phòng Phòng Quản lý đào tạo Trường Cao đẳng Công nghệ cao Hà Nội nhấn mạnh rằng, Nghị quyết số 71-NQ/TW đã đánh dấu bước ngoặt chiến lược trong phát triển giáo dục và đào tạo. Nghị quyết không chỉ đặt giáo dục vào vị trí trung tâm của phát triển quốc gia mà còn khẳng định giáo dục nghề nghiệp là “trụ cột của nền giáo dục thực học, thực nghiệp”, giữ vai trò then chốt trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Nghị quyết này cũng đã định vị lại giáo dục nghề nghiệp trong hệ sinh thái giáo dục quốc dân không chỉ là “đào tạo nghề” mà là hệ thống phát triển con người toàn diện, nơi người học được trang bị cả năng lực nghề, kỹ năng số, và phẩm chất sáng tạo để thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ. Ba khâu đột phá lớn được xác định gồm: tự chủ toàn diện, chuyển đổi số đồng bộ và liên kết chặt chẽ giữa nhà trường – doanh nghiệp – xã hội.

Một điểm mới của Nghị quyết là trao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, để đây không còn là “đơn vị thực thi” mà trở thành chủ thể sáng tạo trong hệ thống phát triển nhân lực quốc gia. Tuy nhiên, tự chủ ở đây là sự kết hợp giữa quyền quyết định và trách nhiệm giải trình, mỗi trường phải công khai mục tiêu, chỉ số chất lượng và kết quả đầu ra để xã hội, doanh nghiệp và người học cùng giám sát.

Lấy tham chiếu từ các mô hình giáo dục nghề nghiệp thành công tại Đức, Singapore, Úc, Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc), thầy Lực khẳng định, nếu Việt Nam triển khai nhất quán tinh thần Nghị quyết 71, đặc biệt về tự chủ, chuyển đổi số và hợp tác quốc tế, giáo dục nghề nghiệp có thể đạt chuẩn quốc tế và trở thành nguồn cung nhân lực chất lượng cho cả thị trường trong nước và toàn cầu.

Nhìn nhận thực tiễn tại Trường Cao đẳng Công nghệ cao Hà Nội, Tiến sĩ Khổng Hữu Lực cho biết, Nhà trường hiện đã xây dựng mạng lưới hợp tác với hơn 400 doanh nghiệp trong và ngoài nước; nhận nhiều chương trình học bổng, đầu tư phòng thực hành gắn với nhu cầu doanh nghiệp; đồng thời triển khai mô hình chuyển đổi số toàn diện trong quản trị, tuyển sinh, đào tạo và đánh giá. Cán bộ, giảng viên và sinh viên Nhà trường còn tham gia hỗ trợ các địa phương trong chiến dịch chuyển đổi số, thể hiện vai trò tiên phong của cơ sở giáo dục nghề nghiệp.

Bên cạnh đó, còn có một số doanh nghiệp nước ngoài đến và đầu tư cho Nhà trường những phòng thực hành tương tự như ở doanh nghiệp, đồng thời cử người của doanh nghiệp đến tham gia đào tạo trực tiếp cho sinh viên Nhà trường để tiếp cận sát hơn với công nghệ của doanh nghiệp.

Để đạt được kết quả này, Nhà trường đã đồng bộ triển khai các nhóm giải pháp gồm: kiện toàn tổ chức, phát triển đội ngũ; đẩy mạnh chuyển đổi số; đổi mới tuyển sinh và đào tạo gắn với giải quyết việc làm; kết nối chặt chẽ với thị trường lao động; huy động nguồn lực doanh nghiệp; nâng cao hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ; hiện đại hóa cơ sở vật chất; tăng cường hợp tác quốc tế.

Đại diện Trường Cao đẳng Công nghệ cao Hà Nội cũng đề xuất, cần sớm có hệ thống công nghệ thông tin quản lý chung về các cơ sở giáo dục nghề nghiệp từ đầu ra, cho đến các văn bằng, chứng chỉ để tạo sự quản lý đồng bộ; có cơ chế, quy định để doanh nghiệp phải tham gia đào tạo kép tại cơ sở giáo dục nghề nghiệp (doanh nghiệp đó phải được đánh giá, cấp phép đủ điều kiện mới được tham gia đào tạo, giảng dạy, và phải hỗ trợ nhà trường trang thiết bị, tài liệu, …). Hơn nữa, cần lưu ý, giáo dục nghề nghiệp không chỉ đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp hiện hữu mà cần có vai trò định hướng nhu cầu xã hội trong tương lai.

Chất lượng đầu ra giáo dục nghề nghiệp nằm ở năng lực “làm được – làm tốt – tạo giá trị”

Cô Huỳnh Thị Thu Tâm – Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh trình bày tham luận về mô hình liên kết giữa nhà trường, doanh nghiệp và hiệp hội ngành nghề trong bối cảnh mới. Theo cô Tâm, trong thời kỳ chuyển đổi số, tự động hóa và kinh tế tri thức, thị trường lao động thay đổi nhanh chóng, đặt ra yêu cầu cấp bách về xây dựng hệ sinh thái đào tạo gắn chặt với việc làm và năng lực cạnh tranh của lực lượng lao động.

Phân tích thực trạng triển khai mô hình ba bên nói trên, cô Tâm cho rằng, thách thức lớn nhất nằm ở chỗ nhu cầu thị trường đang chuyển dịch mạnh, cơ cấu việc làm từ lao động giản đơn sang lao động kỹ thuật và dịch vụ chất lượng cao. Nhiều doanh nghiệp thiếu hụt nguồn nhân lực tay nghề bậc trung và bậc cao trong các lĩnh vực như bán dẫn, tự động hóa, điện – điện tử, logistics, điều dưỡng và du lịch, trong khi một số ngành lại dư thừa nhân lực văn phòng. Khoảng cách kỹ năng vẫn còn lớn, thể hiện ở việc thiếu giờ thực hành chuẩn, thiếu trải nghiệm quy trình thực tế, hạn chế về kỹ năng số và tác phong công nghệ cao.

Cô Tâm cũng nhấn mạnh về việc cần định nghĩa lại chất lượng đào tạo theo hướng “tay nghề và việc làm” mới là thước đo thật sự. Chất lượng giáo dục nghề nghiệp không nằm ở số tín chỉ đã học, mà ở năng lực “làm được – làm tốt – tạo giá trị”. Theo đó, đầu ra phải gắn với vị trí việc làm cụ thể, chuẩn năng lực phải tuân theo Chuẩn kỹ năng quốc gia Việt Nam và tham chiếu Chuẩn kỹ năng ASEAN.

Về phương thức đào tạo, cô Tâm cho rằng, việc sử dụng mô hình Work-Based Learning – Mô hình đào tạo kết hợp giữa học tại trường và học tại doanh nghiệp; sử dụng mô hình đào tạo kép (Dual Training) và hệ thống chứng chỉ ngắn hạn (Micro-Credentials) được xem là trụ cột để rút ngắn thời gian đào tạo lại tại doanh nghiệp, giảm chi phí, nâng cao hiệu suất sản xuất và đưa lao động có kỹ năng vào thực tiễn nhanh hơn.

Một ví dụ cụ thể về việc đào tạo theo đặt hàng của nơi sử dụng lao động là chương trình đào tạo ngành Điều dưỡng tại Trường Cao đẳng Quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh.

Cụ thể, Nhà trường đã phối hợp với Bệnh viện Nhi đồng 1 để điều chỉnh chương trình đào tạo theo nhu cầu thực tiễn của ngành y tế. Doanh nghiệp tham gia ngay từ khâu thiết kế chương trình, xác định chuẩn năng lực, cơ cấu thời lượng lý thuyết – thực hành và xây dựng mô đun kỹ năng nghề theo chuẩn nghề nghiệp tại bệnh viện. Sinh viên được tiếp xúc với môi trường thực tế ngay từ năm đầu, thực tập thường xuyên tại các khoa chuyên môn và được đánh giá năng lực thông qua bộ tiêu chí chung nhà trường – bệnh viện. Kết quả, 100 phần trăm sinh viên ngành Điều dưỡng của trường được đánh giá đạt chuẩn nghề nghiệp và được tuyển dụng ngay sau khi tốt nghiệp.

Song song với đó, cô Tâm cũng giới thiệu hệ sinh thái số eICH – nền tảng công nghệ do Trường Cao đẳng Quốc tế thành phố Hồ Chí Minh phát triển nhằm số hóa toàn bộ quy trình quản lý, đào tạo, học phí và kết nối ba bên: Nhà trường – Sinh viên – Doanh nghiệp, đồng thời mở rộng tương tác đến phụ huynh và cựu sinh viên. Việc triển khai eICH không chỉ giúp nhà trường chuyển đổi số toàn diện, mà còn tăng cường kết nối giữa đào tạo và việc làm, góp phần thực hiện mục tiêu 100% sinh viên có việc làm sau tốt nghiệp.

Nâng cao năng lực giảng viên là nòng cốt để đổi mới, phát triển giáo dục nghề nghiệp

Chia sẻ tại hội thảo, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Tiến Đông – Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Lý Thái Tổ nhấn mạnh, không thể có đào tạo chất lượng cao nếu không có đội ngũ giảng viên chất lượng cao. Thầy Đông thông tin, vấn đề “chảy máu chất xám” đang diễn ra tại nhiều trường cao đẳng ở một số địa phương hiện nay.

Theo thầy Đông, trong mọi chiến lược hay kế hoạch phát triển của bất kỳ lĩnh vực nào, yếu tố con người luôn giữ vai trò quan trọng; và trong giáo dục, người thầy chính là nhân tố quyết định. Giảng viên là lực lượng trực tiếp đào tạo, huấn luyện kỹ năng cho sinh viên; khi người thầy “hiểu nghề”, sinh viên mới có thể “làm được nghề”. Vì vậy, đổi mới giáo dục nghề nghiệp trước hết phải bắt đầu từ đội ngũ giảng viên.

Thực tế cho thấy, năm nay, nhiều trường cao đẳng đạt kết quả tuyển sinh khả quan với quy mô tuyển sinh tăng mạnh so với những năm trước. Tuy nhiên, sự gia tăng này cũng đặt ra thách thức lớn về nhân lực giảng dạy: liệu các trường có đủ số lượng giảng viên có chất lượng đáp ứng yêu cầu về năng lực nghề nghiệp, qua đó bảo đảm triết lý “học để làm được” và học tập suốt đời.

Một trong những hạn chế còn tồn tại là năng lực phân tích nghề và dự báo vị trí việc làm của đội ngũ giảng viên giáo dục nghề nghiệp hiện nay còn nhiều hạn chế. Khi chưa hiểu rõ yêu cầu của nghề và của các vị trí việc làm mới, sẽ rất khó thiết kế chương trình đào tạo và mô đun năng lực phù hợp, cũng như lựa chọn phương pháp, công nghệ và cách thức tích hợp kiến thức trong giảng dạy.

Theo Phó Giáo sư Nguyễn Tiến Đông, giảng viên không chỉ cần vững chuyên môn mà còn phải có kỹ năng sư phạm, khả năng cập nhật nghề nghiệp liên tục và thích ứng với thay đổi công nghệ. Do đó, cơ sở giáo dục nghề nghiệp cần đầu tư bền vững cho phát triển đội ngũ giảng viên, thông qua việc tạo điều kiện cho họ làm việc trực tiếp tại doanh nghiệp, cập nhật quy trình, công nghệ và tiêu chuẩn nghề nghiệp thực tế.

Giáo dục nghề nghiệp không được phép đi lùi mà phải đi lên, dẫn dắt và tiên phong

Phát biểu và định hướng tại hội thảo, ông Lê Huy Nam – Vụ trưởng Vụ Giáo dục, Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương nhấn mạnh, những thông tin và kiến nghị mà các trường cao đẳng chia sẻ tại hội thảo là rất giá trị, và là cơ sở quan trọng để Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương phối hợp cùng Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục tham vấn với Quốc hội trong quá trình sửa đổi Luật Giáo dục nghề nghiệp, bảo đảm bám sát với tinh thần của Nghị quyết 71.

Ông Nam cho biết, Nghị quyết 71 đã mang lại ba đột phá lớn đối với giáo dục nghề nghiệp.

Thứ nhất, đột phá về tư duy phát triển nguồn nhân lực, coi giáo dục – đào tạo là động lực chiến lược để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Giáo dục nghề nghiệp không chỉ dừng lại ở việc “đào tạo để có nghề”, mà phải hướng tới “có nghề và làm chủ nghề”, thích ứng với chuyển đổi số và kinh tế xanh. Theo tinh thần của Nghị quyết, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã được xác định là trụ cột trong hệ thống giáo dục quốc dân, đóng vai trò then chốt trong đào tạo lực lượng lao động kỹ năng cao.

Thứ hai, Nghị quyết 71 tạo ra bước chuyển về tự chủ toàn diện cho các trường nghề, đi đôi với cơ chế trách nhiệm giải trình và đổi mới quản trị. Nhờ vậy, các cơ sở đào tạo có điều kiện linh hoạt hơn, phù hợp với đặc thù địa phương và nhu cầu nhân lực mới.

Thứ ba, Nghị quyết nhấn mạnh mô hình đào tạo gắn với vị trí việc làm, khuyến khích học trong doanh nghiệp – làm trong trường nghề; coi doanh nghiệp – nhà trường – chính quyền địa phương là ba đối tác không thể tách rời. Điều này giúp người học sau tốt nghiệp có năng lực thực thi ngay, sẵn sàng hòa nhập thị trường lao động.

Ông Nam đánh giá, giáo dục nghề nghiệp đang đứng trước “thời điểm vàng” để bứt phá với ba thuận lợi đồng thời: khung chính sách mở; nhu cầu nhân lực kỹ năng nghề cao tăng nhanh trong nhiều lĩnh vực như logistics, bán dẫn, kinh tế xanh …; mô hình hợp tác doanh nghiệp – nhà trường đã bắt đầu phát huy hiệu quả.

Tuy nhiên, hệ thống giáo dục nghề nghiệp cũng đang đối mặt một số thách thức như chênh lệch chất lượng quản trị giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp; nhiều trường nghề có quy mô còn nhỏ, thiếu thiết bị, cơ sở vật chất hiện đại; giảng viên thiếu kinh nghiệm thực tiễn và kỹ năng sư phạm; liên kết doanh nghiệp chưa bền vững; công tác chuẩn hóa – số hóa – công nhận tín chỉ liên thông còn nhiều vướng mắc.

Trước những thách thức đang tồn tại, ông Nam đề xuất một số giải pháp trọng tâm, gồm: Mỗi trường xác định 2-3 ngành nghề trọng điểm gắn với nhu cầu thực tiễn địa phương và doanh nghiệp; Mỗi trường cần liên kết ít nhất 2-3 doanh nghiệp/năm để cùng thiết kế, vận hành và đánh giá chương trình đào tạo; Đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản trị, đào tạo và đánh giá; Minh bạch hóa việc làm và thu nhập của sinh viên sau tốt nghiệp để tăng uy tín tuyển sinh và thu hút doanh nghiệp; Đưa giảng viên đến làm việc trực tiếp tại doanh nghiệp, mời chuyên gia doanh nghiệp tham gia giảng dạy, hướng tới chuẩn hóa đội ngũ giảng viên vào năm 2030; Sớm xây dựng chuẩn kỹ năng số, kỹ năng xanh; công nhận tín chỉ giữa các cấp đào tạo từ trung cấp, cao đẳng và đại học; Ưu tiên đầu tư ít nhất 100 cơ sở giáo dục nghề nghiệp trọng điểm theo vùng kinh tế, hình thành trung tâm thực hành mẫu; Thúc đẩy cơ chế “Nhà nước đặt hàng – trường nghề ký kết hợp tác đào tạo với doanh nghiệp – doanh nghiệp cam kết sử dụng đầu ra”.

Tóm lại, theo Vụ trưởng Vụ Giáo dục Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, Nghị quyết 71 không chỉ là văn bản chỉ đạo mà còn là lời hiệu triệu cho hành động đồng bộ, dứt khoát và sáng tạo trong hoạt động giáo dục đào tạo nói chung, trong đó có giáo dục nghề nghiệp. Khi chúng ta đứng trước thời khắc chuyển đổi mạnh mẽ của chuyển đổi số, kinh tế xanh và toàn cầu hóa, thì giáo dục nghề nghiệp không được phép lùi mà phải đi lên, dẫn dắt và tiên phong.

Cũng trong khuôn khổ Hội thảo, đại diện một số cơ sở giáo dục nghề nghiệp và doanh nghiệp đã chia sẻ kinh nghiệm, quan điểm nhằm đóng góp cho công tác đào tạo đội ngũ nhân lực có kỹ năng nghề cao, hướng tới đổi mới giáo dục nghề nghiệp và bám sát tinh thần của Nghị quyết 71.

Để lại bình luận

Scroll